DÂY CUNG – LỰA CHỌN DÂY CUNG TRONG LÂM SÀNG
Đối với chỉnh nha, thì việc lựa chọn dây cung trong lâm sàng đòi hỏi sự cân nhắc không những chỉ về đặc tính vật lý của nó mà còn cả những yếu tố như khác như độ trầm trọng của lệch lạc răng, loại di chuyển răng mong muốn và các phương pháp điều trị.
Đặc tính lựa chọn dây cung
Một vài đặc tính được kỳ vọng từ những loại dây khác nhau được sử dụng trong các khí cụ chỉnh nha như sau:
- Có độ đàn hồi phù hợp; không dễ dàng biến dạng.
- Có khả năng tạo hình và bền
- Không bị ảnh hưởng bởi các dịch trong miệng, các acid và các hóa chất.
- Không bị ăn mòn, rỉ sét, đối màu hoặc bị oxi
- Thẩm mỹ
- Không bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ nóng hay lạnh
- Không quá đắt
Tùy chọn về hình dạng, kích cỡ và độ cứng của dây
Kích cỡ chỉnh nha khả biến
Trong thực hành chỉnh nha, tiêu chuẩn chính được sử dụng để xác định cường độ lực trong nhiều năm đó là kích cỡ và hình dạng của các dây SS. Để duy trì lực tối ưu trong suốt quá trình điều trị, các bác sĩ chỉnh nha sẽ sử dụng một vài hình dạng và kích cỡ dây khác nhau. Điều này gọi là kích cỡ chỉnh nha khả biến.
Đôi khi, các bác sĩ chỉnh nha chỉnh sửa thiết kế của khí cụ bằng cách thêm vào các loop để làm tăng độ đàn hồi của dây cung trong lâm sàng. Lực được giải phóng bởi dây cung tỉ lệ với luỹ thừa bậc bốn kích thước của nó. Điều này có nghĩa rằng thậm chí với một thay đổi nhỏ ở kích cỡ của dây cung có thể ảnh hưởng đáng sợ tới cường độ của lực được giải phóng.
Sự phức tạp của công thức tính kích thước dây gây khó khăn cho việc quyết định độ cứng phù hợp của dây và việc lựa chọn dây.
Bảng minh họa
Để minh họạ cho các lựa chọn khác nhau có sẵn, bảng dưới liệt kê sự so sánh độ cứng của các dây với các kích cỡ và hình dạng khác nhau.
Theo những bảng này, con số của độ cứng cắt ngang (CS) của dây 0.0004 inch (0.102 mm) được coi là 1 và tất cả các dây khác được đánh giá trong tương quan với nó. Ví dụ, con số về độ cứng của dây có đường kính 0.0014 inch là 150.06. Điều này có nghĩa răng với cùng lượng kích hoạt, dây 0.014 inch sẽ giải phóng lực gấp 150.06 lần so với dây 0.004 inch cùng vật liệu.
Bác sĩ chỉnh nha có thể tự tin lựa chọn dây cung trong lâm sàng phù hợp nhất dựa trên thông tin được cung cấp trong những bảng này. Nên lưu ý rằng giá trị CS tăng lên khi kích cỡ của dây tăng lên. Các bác sĩ chỉnh nha đã ứng dụng cách này nhiều năm qua và các kích cỡ chỉnh nha khả biến sau đó đã phát triển thành một phương pháp luận thực tế và cụ thể hơn.
Các hệ số chỉnh nha khả biến
Các đặc tính vật liệu của dây cung được xác định bằng các hệ số đàn hồi. Với những dây có chung hệ sô đàn hồi như dây SS, để thay đổi độ cứng của dây, ta thay đổi kích cỡ dây là chính. Tuy vậy với những tiến bộ kỹ thuật, chất liệu dây có thể cung cấp những đặc tính vật liệu và hệ số đàn hồi khác nhau, giờ đây đã có dây độ cứng thấp và phạm vi làm việc cao ở cùng kích cỡ, như là dây SS. Điều này được gọi là hệ số chỉnh nha khả biến.
Mỗi dây cung có chỉ số CS (độ cứng cắt ngang) và độ cứng vật liệu (MS). Tích của hai giá trị này cho ta độ cứng dây (WS) của dây cung. MS đại diện cho giá trị độ cứng của vật liệu. SS là vật liệu được sử dụng phổ biến nhất, MS của nó được thiết kế là 1.
Bảng minh họa
Ví dụ, độ cứng độ cứng của dây 0.016 inch SS là 256 và độ cứng của dây NiTi có cùng kích cỡ là 66.56 là xấp xỉ bằng ¼ của 256. Trong thực hành, điều này báo hiệu rằng độ đàn hồi của dây 0.016 inch NiTi gấp bốn lần dây SS cùng kích cỡ hoặc là cùng như vậy với cùng một lượng kích hoạt, NiTi sinh ra một lực băng ¼ lực sinh ra bởi SS.
Với hệ số chỉnh nha khả biến, ta có thể thay đổi được giá trị độ cứng của dây cung trong lâm sàng bằng cách thay đổi chất liệu dây cung mà không cần thay đối kích cỡ của dây. Ví dụ, trong khi độ cứng của dây SS 0.016 inch và dây NiTi 0.018×0.025 là gần như bằng nhau ở lệnh thứ hai (lần lượt là 256 và 251.38), độ cứng của dây đa sợi 0.019×0.025 inch ở lệnh thứ hai (78.46) ít hơn một dây SS đặc 0.012 inch (81.00) ở cùng kích cỡ.
Trong thực hành
Trong thực hành, với hai dây có cùng độ cứng thì dây lớn được ưa thích hơn dây nhỏ bởi nó có thể kiếm soát được sự di chuyển răng nhiều hơn. Các dây cứng lấp đầy rãnh mắc cài do vậy phạm vi hoạt động trong rãnh mắc cài sẽ ít hơn so với các dây mảnh. Do vậy, mục đích chính trong giai đoạn làm phẳng đó là để bắt đầu sử dụng các dây cỡ lớn càng sớm càng tốt để có thể kiểm soát được di chuyển nhiều hơn. Cách tiếp cận là tương tự khi sử dụng các dây cung có loop.
Ứng dụng của hệ số chỉnh nha khả biến cho phép sử dụng dây cung trong lâm sàng từ các vật liệu khác nhau với phạm vi làm việc lớn để lấp đầy rãnh mắc cài, cho phép kiểm soát sự di chuyển các răng ngay từ lúc bắt đầu.
Do vậy, cần tránh sử dụng các kích cỡ dây tăng dần như 0.012 inch, 0.014 inch, 0.016 inch và 0.018 inch. Khi cần phải sử dụng dây SS 0.016 inch thông thường, cũng sẽ có thế sử dụng dây NiTi 0.018×0.025 inch thay thế bởi tổng số lực giải phóng bởi hai dây này ở lệnh thứ hai là như nhau.
Dây 0.018×0.025 inch đương nhiên sẽ kiểm soát di chuyển tốt hơn dây 0.016 tròn. Hơn thế nữa, dây NiTi 0.018×0.025 inch có phạm vi làm việc và độ bền lớn hơn dây 0.016 inch SS.
Theo cơ học
Theo quan điểm cơ học, cách này chắc chắn sẽ có nhiều ưu điểm hơn nhưng các tác giả tin rằng mục tiêu của chúng ta khi bắt đầu điều trị nên là kích thích phản ứng mô xung quanh các răng bằng cách sử dụng các lực nhẹ. Mặc dù các dây chữ nhật được đề cập trên đây giải phóng lực thấp, chúng vẫn có thể gây ra những mô men không được kiểm soát và những tác dụng không mong muốn ngay ở giai đoạn bắt đầu điều trị như mất neo chặn do hiệu ứng mái chèo.
Điều này đặc biệt đúng trong những trường hợp có sai khác nhiều giữa chiều cao của các mắc cài và những trường hợp chen chúc, có sự ngả ra trước. Trong những trường hợp như vậy, tốt hơn hết là nên bắt đầu điều trị với các dây tròn (như dây 0.014 inch NiTi hoặc dây xoắn mềm 0.0155 inch) để dây có thể dễ dàng cuộn tròn trong rãnh mắc cài và di chuyển các răng đi vào cung răng. bằng những chuyển động nghiêng nhẹ nhàng.
Tại thời điểm bắt đầu làm phẳng, khi mà sự sai khác về chiều cao giữa các răng, đã được loại bỏ, dây trượt qua các rãnh mắc cài và gây ra ma sát. Đặc biệt, góc nghiêng giữa mắc cài và dây cung có thể gây ra sự dính dây, dẫn tới chặn đứng hoặc là trì hoãn di chuyển răng và gây ra mất neo chặn.
Phạm vi hoạt động
Phạm vi hoạt động giữa mắc cài và các dây tròn 0.014 hay 0.016 inch thường là đủ lớn để tránh được sự dính. Mặt khác, tổng lượng ma sát chắc chắn sẽ lớn hơn nếu sử dụng các dây chữ nhật ở giai đoạn này, đặc biệt là dây NiTi và TMA mà có thể gây ra ma sát cao bởi bề mặt xù xì của chúng. Đây là một lý do quan trọng khác để trì hoãn việc sử dụng dây chữ nhật cho tới giai đoạn cuối của việc làm phẳng. Sau khi đạt mức dàn phẳng có thể chấp nhận được với các dây tròn, các dây siêu đàn hồi NiTi 0.016×0.022 inch hoặc 0.019×0.025 inch có thể được sử dụng để cho bệnh nhân dễ chịu.
Tổng kết
Dây SS
SS và hợp kim chrome-cobalt là loại dây cung có chung các đặc tính vật lý trong lâm sàng. Các dây này vẫn phổ biến bởi độ bền, độ cứng cao, đặc tính tạo hình và giá rẻ, rất tốt đối với một số cơ học như đóng khoảng, duy trì hình dạng cung răng, sửa chữa trục nghiêng và kiểm soát torque.
Các dây đa sợi SS được ưa dùng hơn cho giai đoạn làm phẳng bởi chúng có độ đàn hồi cao hợn, phạm vi làm việc rộng, đặc tính ma sát thấp và đặc biệt là giá thành rẻ so với các dây NiTi. Nhược điểm của những dây này đó là nó dễ dàng bị ảnh hưởng bởi lực nhai và có thể bị biến dạng ở những trường hợp chen chúc từ trung bình cho tới nặng.
SS và hợp kim chrome-cobalt không phù hợp với việc làm phẳng. Thêm các loop lên dây tròn là một cách làm giảm độ cứng không thực tế bởi dây cung có thể cuộn tròn trong rãnh mắc cài và chọc vào lợi. Các dây thẳng, dẻo hoạt động hiệu quả hơn trong giai đoạn làm phẳng. Tuy vậy việc bẻ loop vẫn giữ vai trò quan trọng, đặc biệt là khi đóng khoảng.
Dây NiTi
Các dây Ni Ti, với độ cứng thấp, độ đàn hồi cao, độ bật đàn hồi, độ bền và phạm vi hoạt động là dây cung xuất sắc cho quá trình làm phẳng. Những dây này có thể được sử dụng trong các giai đoạn trước của điều trị để chỉnh sửa sự sai lệch về mặt phẳng giữa các răng, như khi rơi mắc cài.
Dây TMA
Các dây cung TMA, với đặc tính trung gian giữa các dây SS và Niti lại rất cần thiết cho các cơ chế không ma sát trong lâm sàng, cơ học phân đoạn do khả năng định hình cao và phạm vi làm việc rộng.