Chỉnh nha – mục tiêu điều chỉnh các răng về lại đúng hướng và vị trí, giúp cải thiện khả năng ăn nhai và mang lại nụ cười đẹp cho bệnh nhân sai khớp cắn.
Chỉnh nha – Bệnh nhân sai khớp cắn loại II
Khoảng 70% bệnh nhân sai khớp cắn loại II, cắn hở răng trước có hiện tượng di lệch đĩa khớp. Nếu bệnh lý khớp thái dương hàm tiến triển, khớp cắn hở loại II có thể sẽ trở nên tồi hơn, gây khó khăn cho quá trình điều trị chỉnh nha hoặc gây tái phát sau điều trị.
Ở các bệnh nhân cắn hở răng trước, nhất là những bệnh nhân có tật đẩy lưỡi, thông thường sau giai đoạn làm thẳng và làm phẳng, mức độ cắn hở sẽ giảm xuống.
Việc nhổ răng hàm nhỏ và kéo lùi nhóm răng trước cũng sẽ làm giảm mức độ cắn hở do sự trồi và ngả lưỡi của các răng cửa.
Ở những bệnh nhân cắn hở răng trước có cắn chéo răng sau hoặc cắn đối đầu răng sau do hẹp hàm trên, việc nong rộng cung răng trên nhằm tạo ra sự lồng múi tốt ở vùng răng hàm cũng sẽ làm giảm mức độ cắn hở răng trước.
Cần nhổ răng khôn trước chỉnh nha do chúng có thể gây cản trở cắn sau khi đánh lún các răng hàm lớn gần kề. Khi răng hàm lớn thứ hai đã mọc thì cần phải gắn mắc cài và đánh lún cả răng này để tránh cản trở cắn.
Chỉnh nha – Bệnh nhân vẩu xương ổ răng
Ở các bệnh nhân vẩu xương ổ răng có kích thước dọc tầng mặt dưới cao, góc hàm mở, việc nhổ răng chỉ tạo khoảng để di chuyển nhóm răng cửa theo chiều trước sau.
Quá trình kéo lùi nhóm răng trước bằng chỉnh nha thông thường có xu hướng làm trồi các răng sau, tăng kích thước dọc tầng mặt dưới, làm xương hàm dưới xoay xuống dưới ra sau, có thể làm cho cả khớp cắn và thẩm mỹ mặt trở nên tồi hơn. Do đó, kiểm soát răng sau theo chiều đứng là yếu tố quyết định đối với kết quả điều trị thành công ở các bệnh nhân này. Minivis có thể dùng để đồng thời kéo lùi nhóm răng trước và đánh lún răng sau.
Chỉnh nha – Bệnh nhân khớp cắn sâu
Ở các bệnh nhân quá phát xương hàm trên theo chiều đứng nhưng khớp cắn sâu, mức độ bộc lộ răng cửa trên lại thấp không phù hợp với việc đánh lún toàn bộ cung răng trên.
Để tránh chạm sớm răng cửa trong quá trình đánh lún răng hàm và tạo điều kiện cho sự tự xoạy xương hàm dưới lên trên ra trước, nên cân nhắc đánh lún nhóm răng trước hàm dưới.
Đối với các bệnh nhân bị nghiêng (chéo)
Đối với các bệnh nhân bị nghiêng (chéo) mặt phẳng cắn, cần tiến hành đánh lún răng sau một bên. Ở những bệnh nhân này, phải chụp phim đo sọ mặt thẳng để xác định vị trí răng hàm ở mỗi bên theo chiều đứng nhằm tính toán mức độ đánh lún phù hợp.
Trong quá trình đánh lún, cần chụp lại phim đo sọ mặt thẳng để theo dõi.
Nên làm tăng chiều rộng liên răng hàm hoặc liên răng nanh vào lúc bắt đầu điều trị, để bù trừ tác dụng làm hẹp cung răng của lực đánh lún từ phía khẩu cái.
Nếu cung răng bị nong rộng quá mức thì cũng sẽ dễ sửa chữa trong giai đoạn sau, trong khi việc đánh lún đồng thời với nong rộng khoảng cách liên răng hàm ở giai đoạn kết thúc là rất khó khăn. Có thể dùng khí cụ quadhelix để nong rộng cung răng và đồng thời làm trung gian tác dụng lực đánh lún lên các răng hàm lớn thứ nhất từ minivis.
Minivis chỉnh nha cắm ở phía gần so với răng hàm lớn thứ nhất sẽ dễ tiếp cận hơn khi cắm cũng như khi tác dụng lực, ít gây xoay toàn bộ cung răng, phù hợp với các bệnh nhân thiếu niên do các răng hàm lớn thứ hai chưa mọc hoặc mới chỉ mọc một phần, niêm mạc phía xa rằng hàm lớn thứ nhất còn lỏng lẻo và di động cùng với khẩu cái mềm.
Có thể cắm minivis ở phía xa rang hàm lớn thứ nhất với bệnh nhân trưởng thành do vị trí này mang lại khả năng đánh lún trực tiếp và kiểm soát độ torque của răng hàm lớn thứ hai tốt hơn.
Đối với các bệnh nhân cắn hở răng trước có mức độ bộc lộ răng cửa thấp
Cắm minivis ở phía xa so với răng hàm lớn thứ nhất sẽ tốt hơn ở phía gần do hiệu quả xoay toàn bộ cung răng trên cùng chiều kim đồng hồ lớn hơn, làm trồi răng cửa nhiều hơn.Một số tác giả chủ động phối hợp đánh lún và làm nghiêng xa răng hàm lớn hàm trên vào lúc bắt đầu điều trị ở các bệnh nhân cắn hở răng trước. Việc này sẽ làm mặt phẳng căn hàm trên xoay cùng chiêu kim đồng hồ sau giai đoạn làm thẳng và làm phẳng, giúp đóng khớp cắn hở nhanh hơn.
Nói chung, phương pháp này cũng phù hợp với nguyên tắc cơ sinh học chỉnh nha là, khi cần đánh lún răng hàm và làm trồi răng cửa thì tác dụng lực càng về phía sau sẽ càng thuận lợi do làm mặt phằng căn hàm trên xoay cùng chiều kim đồng hồ.
Cần tiên lượng việc gắn mắc cài và đánh lún phân đoạn răng hàm ngay từ đầu hay làm thẳng toàn bộ cung răng rồi mới đánh lún là tốt hơn. V.d., các răng mọc lệch về phía khẩu cái sẽ cần phải làm thẳng sớm để tránh gây cản trở cắn trong quá trình đánh lún răng sau.
Trường hợp bệnh nhân cắn hở răng trước có mức độ bộc lộ răng cửa trên thấp
Trường hợp bệnh nhân cắn hở răng trước có mức độ bộc lộ răng cửa trên thấp, việc làm thẳng và làm phẳng cung rằng với dây cung liên tục cũng sẽ thuận lợi hơn do làm trồi răng cửa, giúp cải thiện thấm mỹ. Tuy nhiên, đối với những bệnh nhân cắn hở răng trước có mức độ bộc lộ răng cửa trên cao, cười hở lợi, nên dùng dây cung phân đoạn để đánh lún răng hàm trước khi tiến hành giai đoạn làm thẳng và làm phẳng nhằm tránh làm trồi răng cứa, tăng nặng thêm mức độ bộc lộ răng cửa và cười hở lợi.
Nói chung, đối với các bác sĩ chưa có kinh nghiệm, nên sửa chữa cắn chéo răng sau (nếu có), tiến hành giai đoạn làm thẳng và làm phẳng cũng như kéo đóng khoảng trước rồi mới tiến hành đánh lún răng sau, bởi vì mức độ cắn hở sẽ thay đổi sau hai giai đoạn này.
Trường hợp chưa gắn mắc cài
Nếu chưa cần gắn mắc cài cung răng dưới trong giai đoạn đánh lún ban đầu thì nên cho bệnh nhân đeo máng duy trì hàm dưới để tránh trồi răng sau hàm dưới khi răng sau hàm trên lún xuống. Sau đó, khi gắn mắc cài cung răng dưới, cần phải gắn cả các răng hàm lớn thứ hai để không cho chúng trồi lên.
Thời gian của giai đoạn kết thúc ở những bệnh nhân cắn hở răng trước thường kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm. Cần mắc chun đứng giữa các ráng cứa trên và răng cứa dưới 8-12 giờ môi ngày (giảm dân khi ôn định) đế duy trì độ cắn trùm. Trong giai đoạn này, cần phải loại bỏ các thói quen xấu như đẩy lưỡi, thở miệng, cũng như luyện tập thần kinh cơ, nhai kẹo cao su đề tăng cường độ lực nhai vôn thường thấp ở các bệnh nhân cắn hở, nhằm cải thiện sự ổn định khớp cắn sau điều trị. Ngoài ra, cũng cần đảm bảo không có bệnh lý khớp thái dương hàm.